Bà nội bảo tôi chạy đi thông báo cho tất cả rằng bà sắp chết rồi. Tất cả ở đây là cha mẹ tôi và các chú, các thím, cả thảy bà có năm người con trai. Tôi chạy ra đồng tìm cha mẹ, lại vòng quanh làng tìm các chú, truyền đạt đúng nguyên văn chữ chết của bà.
Đấy là lần thứ ba bà ra thông báo.
Lần thứ nhất, khi các chú chuẩn bị đưa bà đi viện thì bà vùng dậy, kêu hết đau rồi.
Lần thứ hai tương tự, lâm ly hơn một chút, xe chạy tới đầu làng bà bảo dừng, cho bà về, bà khỏe rồi.
Nên đến lần thứ ba cả đại gia đình tôi không ai luống cuống gấp gáp gì nữa. Bà được đặt biệt danh là bà già chăn cừu, nhái lại câu chuyện chú bé chăn cừu mà ai cũng biết.
Tám lăm tuổi, bà vẫn đi đứng thẳng băng không hề khom còm. Năm người con trai nhưng bà không muốn về ở với ai. Bà nói thích ở một mình hơn, trong căn nhà tiên tổ để lại và có bát nhang thờ ông nội tôi mất từ năm chục năm trước. Năm người con trai ra riêng cũng xây nhà trong làng. Thành ra cả nhà tôi cũng không câu nệ chuyện chăm sóc bà, ở gần thì cứ qua về thăm nom bà, dù gì bà vẫn còn tự lo được.
Lần thứ ba đòi chết, bà được nhập viện thật. Hình như đấy cũng là lần đầu tiên bà phải tới bệnh viện. Những kỳ sinh nở hồi xưa tự xoay xở ở nhà. Quần quật buôn bán nuôi con một mình bà cũng không rảnh để đi viện.
Bác sĩ hỏi bà có tiền sử bệnh gì không. Bà lắc đầu, có đi viện bao giờ đâu mà biết. Hỏi giờ thấy đau chỗ nào, bà trả lời không biết luôn, rã rời toàn thân.
Làm xét nghiệm máu, chụp phổi, chụp não chả thấy bệnh gì. Ở bệnh viện ba hôm bà được cho về với kết luận bệnh suy nhược tuổi già. Bác sĩ dặn về nhà hỏi bà thích gì thì cứ cho bà thỏa mãn. Nói khéo như vậy là có khi bà bị bệnh hiểm nghèo cỡ ung thư không chữa trị được cũng nên. Và cũng có thể bệnh tuổi già thật, như một cục pin đã cạn năng lượng, khô dần yếu dần.
Đưa bà về nhà, hỏi thích gì, bà bảo thích một đứa con gái.
Bà từng có một người con gái, gái đầu lòng, là chị của năm đứa em trai. Hồi đó ông nội đi lính, bà nội không biết ông đi chiến trường nào, bà ở nhà ruộng nương với chạy chợ kiếm ăn nuôi bảy miệng ăn. May nhờ có người con gái đầu lòng, tức là cô tôi, mới chỉ mười hai tuổi đã phải khôn trước tuổi, biết chăm sóc hết năm đứa em.
Cô tôi trúng bom, chết không nhận ra mặt. Bà nội lấp mộ cô rồi hôm sau đã phải tất tả chạy vạy theo công việc để nuôi năm người con trai còn lại, từ nay chỉ một tay bà.
Phải đến khi hết chiến tranh, bà mới “gặp” lại người con gái trong giấc mơ.
Cô tôi về, mặc một cái áo dài trắng muốt. Cô thủ thỉ bu ơi con về dưới đó người ta tra hỏi có phải mày còn năm đứa em trai không, con nói hết rồi, chỉ mỗi mình tôi, nhà không còn ai cả, giờ con về đây xin bu đốt cho một con nộm.
Nói rồi cô tôi biến mất. Bà cũng tỉnh giấc, lọ mọ lên thị xã bắt xe đò vào Huế. Bấy giờ vàng mã và hình nộm chỉ có người Huế làm được.
Không biết cô cần đốt hình nộm để làm gì. Một cái hình nhân thế mạng chăng, hay cô nhớ mẹ nên cần hình nộm để ôm, hay cô cần một người bạn phu thê. Phải biết rõ để làm hình nộm cho đúng chứ. Bà kể lại giấc mơ cho người làm vàng mã, kèm theo mấy thắc mắc.
Ông chủ cửa hàng bảo chắc là cần một cái hình nộm búp bê, vì cô ấy chết chưa tới tuổi thành niên, và tuổi thơ mải thay mẹ chăm em nên không có thời gian chơi. Vả lại, lúc đó lấy đâu ra búp bê để chơi.
Bà tôi bật khóc nức nở, đúng quá, bà chưa mua cho con gái một món quà nào, huống nữa là búp bê.
Sau khi đốt con nộm giấy, bà không còn mơ gặp người con gái nữa. Chắc cô đã được siêu thoát thanh thản ở bên kia.
Cũng từ đó bà đâm ra sợ những con búp bê. Thấy búp bê là bà vùng chạy. Có thể đó là lý do mà bà không chịu ở với người con nào, vì sợ mấy đứa cháu nội sẽ cầm búp bê trêu bà.
Cả đời bà không sợ gì, chỉ sợ mỗi búp bê.
Có lẽ thế thật. Chục năm ông đi chiến trường, mình bà ở nhà chạy chợ, đạn lạc không sợ. Bà cũng dạy các con phải can đảm lên mà sống, không còn gì để mất.
Hết chiến tranh, vẫn chỉ mình bà nuôi con. Buôn bán chạy chợ từ thời còn đạn bom, giờ bà quen rồi. Phi thương bất phú, không chạy chợ khó nuôi được bầy con. Người ta ép bà phải vào hợp tác xã, phải chân lấm tay bùn cùng nông dân. Bà cãi mình tôi nuôi năm đứa con nếu chỉ làm ruộng không ăn đủ. Nửa đêm người ta canh gác chặn cầu không cho bà đi buôn, bà xắn quần lên lội qua rào nước.
Gan dạ như bà mới bán buôn nổi cho đến tận bảy chục tuổi. Một đời chỉ biết lo cho con cháu, không thèm muốn gì. Bây giờ cái bà thích thì con cháu không đáp ứng được.
Thôi thì có năm đứa con dâu ở đây, bà thích đứa nào để đưa bà về nhà ấy chăm. Các chú thưa với bà vậy. Bà không chịu, một mực chỉ thích có đứa con gái.
May mà bà không thuận, chứ nếu bà thốt ra một cái tên nào đó trong số năm người con dâu, thì nhất quyết sẽ có một sự kỳ thị, anh em ruột chị em dâu hằm hè nhau như chơi. Cuối cùng cả năm người con dâu cắt cử nhau trực chăm bà, đổi nhau luân phiên mỗi người một ngày. Cha chết không bằng hết gạo, cũng phải mưu sinh chứ cần gì thường trực năm con dâu chăm bà.
Chuyến đi viện về lần này bà nằm liệt trên giường. Việc chăm bà giao cho mẹ tôi và các thím là đúng rồi, vì phải đút cháo và làm vệ sinh thường xuyên cho bà. Năm người con trai chỉ thỉnh thoảng ngày một lần ghé qua, coi tình hình bà, rồi thôi.
Mẹ tôi và các thím trực chăm bà. Người nào cũng được bà nắm tay rồi thủ thỉ: “Đàn bà khổ lắm, cha mẹ sinh ra để đi làm con hầu nhà chồng”.
Mỗi câu đó thôi, bà nói với tất cả năm người con dâu. Nghe như có chút ngậm ngùi thân phận, như an ủi chia sẻ với con dâu. Có khi vì vậy mà bà không muốn về ở với người con nào.
Chỉ húp được nước cháo loãng, ngày hôm sau bà yếu hẳn hơn ngày trước.
Mẹ tôi lại hỏi bà ơi bà thích gì.
Bà bảo thích đi nấu cơm.
Trời, giờ bà ngồi dậy còn không được mà đòi đi nấu cơm. Bà muốn đi nấu cơm là có khi bà chưa yếu đâu, có khi bà chỉ giả vờ, biết đâu rồi bà lại khỏe như trước cho mà xem. Đấy là cả nhà chúng tôi suy diễn vậy. Hoặc, bà đã bắt đầu lẩn thẩn rồi cũng nên.
Bà thích ăn cơm thì chúng con nấu cho bà ăn, nhé.
“Mẹ thích nấu cơm thật ngon cho con cháu ăn. Cả đời chúng nó chưa khen mẹ lần nào”.
Đến đây thì tất cả kết luận bà không chỉ lẩn thẩn, mà còn chướng. Nghe nói người già hay tủi thân và chướng. Bà đòi có đứa con gái, rồi lại đòi đi nấu cơm. Cả hai mong muốn quá xa vời với bà già tám lăm tuổi đang nằm thoi thóp.
Được mấy hôm nữa thì bà mất. Có thể coi vì già mà chết, thuận thời quy tiên. Phải đến lúc ấy bà mới được chúng tôi khen: “Bà chết nhẹ nhàng quá”.
Giỗ đầu của bà, tất cả con cháu tập trung đông đủ trong căn nhà truyền tự. Hỏi nhau một năm nay có ai mơ thấy bà về không. Tất cả lắc đầu, chả thấy gì, chắc bà đã được siêu thoát.
Thế rồi một đứa cháu khóc rống lên. Đấy là bé con chú út. Nó bảo cháu không mơ thấy bà nhưng nhớ hồi còn sống bà cứ kêu cháu tới vuốt tóc xoa má khen giống cô dại như đúc. Cô dại, cách người quê gọi một người con gái đã mất để tránh gọi tên húy. Chả ai biết con bé có giống cô hay không, người lớn nhất là cha tôi hồi đó cũng không nhớ mặt được người chị đầu của mình.
Chuyện kể của bé con làm tất cả mọi người sững ra một lúc.
Chẳng biết về dưới đó bà đã gặp cô dại chưa. Mà có khi cô đã đi lấy chồng, hầu hạ nhà người ta cũng nên. Rồi chú tôi bảo hay là mình đi đặt làm một con nộm giấy hình bé gái đốt cho bà, phòng khi bà về dưới đó không gặp chị cả, thì có con nộm để an ủi bà.
Tất cả gật đầu ậm ờ. Nghe cũng có lý. Biết đâu giờ là lúc đáp ứng được mong mỏi của bà.